Gia phả họ Phan (Nam Vân) ghi: Phan Đình Khải là con trai thứ 2 ông Đình Quế, sinh giờ Tý, ngày 11 tháng 11 năm Tân Hợi, hoàng hiệu Duy Tân thứ 8 (1911) (bà chính thất sinh ra), học chữ Tây thi không đỗ, theo Đảng Cộng sản, năm Canh Ngọ phải can án khổ sai 10 năm phát vãng ở đảo Côn Luân, đến tháng 6 năm Bính Tý được ân sá về nhà. Ngày 11 tháng 11 năm Tân Hợi là ngày 30 tháng 12 năm 1911.
Lê Đức Thọ, thật tên Phan Đình Khải, sinh tại thôn Địch Lễ, xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định (tại TP Nam Định ngày nay). Ông là anh trai của tướng quân hậu cần Đinh Đức Thiện và đại tướng Mai Chí Thọ.
Lê Đức Thọ trở nên tích cực trong chủ nghĩa dân tộc Việt Nam từ khi còn là một thiếu niên, và trải qua phần lớn thời niên thiếu của mình trong các nhà tù của Pháp. Đây là một trải nghiệm đã khiến ông trở nên cứng rắn. Biệt danh của Lê Đức Thọ là "Cái búa" do tính cách nghiêm khắc của ông.[^5] Ông tham gia các hoạt động cách mạng như tổ chức bãi khóa, dự lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, lãnh đạo phong trào đấu tranh của học sinh... và bị Pháp bắt giam hai lần (1930-1936 và 1939-1944). Năm 1930, Lê Đức Thọ là một trong những người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính quyền thực dân Pháp đã giam cầm ông từ năm 1930 đến năm 1936 và một lần nữa từ năm 1939 đến năm 1944.
Người Pháp đã giam ông vào một trong những phòng giam "chuồng cọp" trên nhà tù nằm trên đảo Poulo Condore (nay là Đảo Côn Sơn) ở Biển Đông. Poulo Condore với những phòng giam “chuồng cọp” được coi là nhà tù khắc nghiệt nhất toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp.[^6] Trong thời gian ở “chuồng cọp”, Lê Đức Thọ đã phải chịu đói rét và tủi nhục. Cùng với các tù nhân cách mạng khác, ông học văn chương, khoa học, ngoại ngữ và đóng kịch Molière.[^7]
Sau khi được thả tự do lần thứ hai, ông trở về Hà Nội hoạt động và trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1944, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1948, Lê Đức Thọ vào miền Nam Việt Nam làm Phó Bí thư, kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Bộ cho tới Hiệp định Genève được ký kết năm 1954.
Sau khi tập kết ra Bắc vào năm 1955, ông được bầu vào Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và đắc cử.
Trong các năm từ 1956 đến 1973 và 1976 đến 1982, Lê Đức Thọ làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Theo William Duiker, ông đã nhanh chóng làm cho ban này trở thành bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên. Theo một số nguồn tin, Lê Đức Thọ cũng có vai trò chính trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, trong đó Ban Tổ chức Trung ương đã cùng thực hiện điều tra và bắt giữ một số cán bộ, đảng viên làm gián điệp cho nước ngoài.[^9]
Đầu năm 1968, Lê Đức Thọ trở lại miền Nam làm Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam một thời gian ngắn. Sau các cao điểm của đợt 2 và 3 của Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu xúc tiến các cuộc thương lượng bí mật. Đến tháng 5/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi Lê Đức Thọ về gấp Hà Nội, để chuẩn bị sang Paris làm cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Trước khi đoàn đàm phán lên đường, Hồ Chí Minh đã căn dặn: đừng để nước Mỹ bẽ bàng, đừng xúc phạm nhân dân Mỹ vì Việt Nam chỉ chiến đấu với giới cầm quyền hiếu chiến của Mỹ, về nguyên tắc quyết không nhượng bộ nhưng về phương pháp thì "dĩ bất biến, ứng vạn biến".[^11]
Trong quá trình đàm phán, Lê Đức Thọ thường xuyên bay về nước để báo cáo tình hình đàm phán. Ngày 12/8/1969, Lê Đức Thọ báo cáo tình hình Hội nghị Paris với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là ngày cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh tự mình xử lý việc nước trước khi lâm bệnh nặng và qua đời.
Cuối năm 1977 đến tháng 1 năm 1979, Bộ Chính trị phân công ông phụ trách Ban Công tác Đặc biệt.
Năm 1980, Lê Đức Thọ làm Bí thư Thường trực Ban bí thư, phụ trách tổ chức. Đến tháng 10 năm 1980 kiêm Trưởng ban Chính trị Đặc biệt.
Từ tháng 3 năm 1983, ông là Bí thư phụ trách Tư tưởng, Nội chính và Ngoại giao.
Năm 1983, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng.
Năm 1986, Lê Đức Thọ là Trưởng Tiểu Ban Nhân sự Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ tháng 12 năm 1986, ông là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày 13 tháng 10 năm 1990, ông qua đời tại Viện quân y 108 sau một cơn bạo bệnh. Dù xe cứu thương đã được điều đến để chở ông đến bệnh viện cấp cứu, cuối cùng ông vẫn không qua khỏi. Sau đó, linh cữu của ông được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Lê Đức Thọ được trao tặng giải Nobel Hòa bình năm 1973 cùng với Henry Kissinger vì thương thảo thành công Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình tại Việt Nam. Tuy nhiên, ông đã từ chối nhận giải với lý do hòa bình vẫn chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam.[^*]
Tên Lê Đức Thọ đã được đặt cho nhiều tuyến đường phố tại các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Quê hương ông cũng có khu tưởng niệm[^12].
Lê Đức Thọ cũng là một nhà thơ với một số tập thơ như "Trên những nẻo đường" (1956), "Đường ngàn dặm" (1977), "Nhật ký đường ra tiền tuyến" (1978), "Thơ Lê Đức Thọ" (1983).
Đó là sự nỗ lực và lòng dũng cảm của Lê Đức Thọ trong việc đấu tranh cho độc lập và tự do của Việt Nam. Ông là một người đáng kính và ghi dấu trong lịch sử nước ta.
Đời người có giới hạn, tình yêu quê hương bền bỉ. - Lê Đức Thọ