Xem thêm

Trận Đà Nẵng (1858-1859): Mở đầu cuộc chiến tranh Pháp-Việt

Ảnh: Trận Đà Nẵng (1858-1859) Trận Đà Nẵng (1858-1859), còn được gọi là Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất, là trận chiến quan trọng mở đầu cho...

Trận Đà Nẵng (1858-1859) Ảnh: Trận Đà Nẵng (1858-1859)

Trận Đà Nẵng (1858-1859), còn được gọi là Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất, là trận chiến quan trọng mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp - Việt (1858-1884) trong lịch sử Việt Nam. Trận đánh kéo dài trong nhiều ngày, bắt đầu từ ngày 31 tháng 8 năm 1858 và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1859.

Hoàn cảnh

Giữa thế kỷ XIX, các nước phương Tây đang trải qua sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, đồng thời, họ cũng trở thành những nước xâm lược thuộc địa. Việt Nam, không ngoại trừ, trở thành nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh này.

Tận dụng mối quan hệ đã có từ thời chúa Nguyễn Ánh và sức suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha đã xâm lược và tiến hành cuộc chiếm đóng đất nước. Sau hai cuộc thăm dò và thử sức ở Đà Nẵng vào ngày 15 tháng 4 năm 1847 và ngày 26 tháng 9 năm 1857, một ủy ban có tên là "Commission de la Cochinchine" được thành lập và được sự chấp thuận từ Hoàng đế Napoléon III, chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam. Đà Nẵng được chọn vì là một cảng biển sâu rộng, thuận tiện cho tàu chiến ra vào và nằm trên trục đường Bắc-Nam, gần kinh đô Huế. Đồng thời, Đà Nẵng còn có cánh đồng Nam-Ngãi để nuôi quân, cũng như có nhiều giáo sĩ và giáo dân gốc Pháp.

Việc đánh chiếm Đà Nẵng và tiến vào Huế là con đường ngắn nhất, nhanh chóng nhất, và hiệu quả nhất để Pháp và Tây Ban Nha thực hiện ý đồ xâm lược. Tuy nhiên, phải chờ đến sau khi Hiệp ước Thiên Tân (28 tháng 6 năm 1858) được ký kết, quân đội Pháp ở Viễn Đông mới rảnh tay chuyển sang mặt trận khác.

Lực lượng đôi bên

  • Lực lượng liên quân gồm khoảng 3.000 quân (trong đó có 450 binh sĩ Tây Ban Nha), được trang bị trên 14 tàu chiến, trong đó có tàu chiến Némésis và các tàu lớn khác, trang bị tới 50 khẩu đại bác.
  • Lực lượng quân Nhà Nguyễn ở Đà Nẵng gồm khoảng 2.070 lính chính quy dưới quyền chỉ huy của Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng. Khi trận chiến nổ ra, Hữu quân Đô thống Lê Đình Lý chỉ huy từ Huế và tổng cộng có hơn 7.000 người. Quân đội Việt được trang bị nhiều đại bác và vũ khí khác.

Liên quân tấn công

Xuất phát từ đảo Hải Nam (Trung Quốc), Phó Đô đốc Hải quân Charles Rigault de Genouilly được chỉ đạo phối hợp với đạo quân Tây Ban Nha do Đại tá Lanzarotte chỉ huy. Toàn bộ lực lượng liên quân đã có mặt trước cửa biển Đà Nẵng vào chiều tối ngày 31 tháng 8 năm 1858.

Sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, De Genouilly gửi tối hậu thư buộc quan Trấn thủ Đà Nẵng phải đầu hàng trong hai giờ. Tuy nhiên, không chờ đợi phản hồi, liên quân đã tiến hành nã đại bác vào cửa sông Đà Nẵng và các đồn ở bán đảo Sơn Trà.

Liên quân được chia thành hai bộ phận:

  • Bộ phận thứ nhất tập trung hỏa lực bắn vào các đồn ở Sơn Trà.
  • Bộ phận thứ hai tiến gần cửa sông Đà Nẵng để bắn vào đồn Đông và đồn Tây.

Ngay trong ngày đầu tiên, đồn Đông đã bị chiếm, và sáng hôm sau, liên quân tiếp tục chiếm đồn Tây, rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, chiếm đồn An Hải và đồn Điện Hải chỉ trong một ngày. Quân Việt vừa đánh vừa lui dần ra sau, lập phòng tuyến Liêu Trì trước huyện Hòa Vang để ngăn liên quân tiến vào nội địa.

Tình hình sau trận

Sau khi Đà Nẵng bị chiếm, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tiến vào nội địa và đánh tan phòng tuyến của quân Việt. Tuy nhiên, suốt 5 tháng giao tranh, tình hình khó khăn về thức ăn, bệnh tật và khí hậu mở đường cho lực lượng liên quân suy yếu và mệt mỏi. Liên quân đã gặp nhiều thất bại và số lượng quân lính chết và bị thương tăng lên.

Phó Đô đốc De Genouilly viết thư về Pháp, kể rằng: "Chính phủ bị đánh lừa về bản chất của cuộc đi đánh lấy nước Nam Kỳ (Việt Nam); người ta trình bày rằng việc viễn chinh này chỉ là một việc dễ dàng thôi, nho nhỏ thôi; thực ra, nó không dễ, cũng không nhỏ... Những diễn biến cho thấy đối phương không thể phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật để tấn công ồ ạt, mà đã bị chặn ngay ở cửa biển Đà Nẵng. Đây là kết quả của khối đoàn kết toàn dân. Ngoài quân chủ lực, còn có sự tham gia của biền binh và dân binh sở tại... Có thể coi đây là thắng lợi lớn và duy nhất ở mặt trận Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống xâm lược của quân và dân Việt, từ 1858 đến 1884".

Hiện nay, vẫn còn nhà tưởng niệm nơi chôn cất các binh lính liên quân Pháp - Tây Ban Nha chết trong trận Đà Nẵng. Nhà tưởng niệm này, được gọi là "Nghĩa trang Y Pha Nho", vẫn được bảo tồn nguyên vẹn bởi người dân địa phương.

Nguồn tham khảo:

  • Trần Văn Giàu, Tổng tập (phần I), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2006.
  • Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4, nhiều tác giả, Trần Nam Tiến chủ biên, Nhà xuất bản Trẻ, 2007.
  • Hoàng Văn Lân & Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858 - cuối thế kỷ 19), quyển 3, tập 1, phần 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 1979.
1