Xem thêm

Trần Huy Liệu: Nhà văn, nhà hoạt động cách mạng, và nhà sử học tài ba

Hình ảnh Trần Huy Liệu Trần Huy Liệu (5 tháng 11 năm 1901 - 28 tháng 7 năm 1969) là một nhà văn, nhà hoạt động cách mạng, và nhà sử học nổi tiếng của...

Trần Huy Liệu Hình ảnh Trần Huy Liệu

Trần Huy Liệu (5 tháng 11 năm 1901 - 28 tháng 7 năm 1969) là một nhà văn, nhà hoạt động cách mạng, và nhà sử học nổi tiếng của Việt Nam. Ông đã đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong chính phủ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm cả vị trí Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền. Ông cũng là Chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và là một Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Đông Đức.

Tiểu sử

Ông sinh ngày 5 tháng 11 năm 1901 tại làng Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Trần Huy Liệu có bút danh Nam Kiều và nhiều bút hiệu khác như Đẩu Nam, Hải Khách, Côi Vị, Ẩm Hân Kiếm Bút. Trong thời niên thiếu, ông được học từ thầy Bùi Trình Khiêm ở Nam Định, Hà Nội. Từ năm 1924, ông đã công tác ở miền Nam và làm việc cho các báo Nông cổ mín đàm và Rạng đông, cũng như làm chủ bút cho tờ báo Đông Pháp thời báo. Tháng 6 năm 1927, ông bị bắt bởi Pháp vì liên quan đến các tổ chức yêu nước.

Trần Huy Liệu đã có một người vợ chính thức và bốn người con. Ngoài ra, ông cũng có một người vợ không chính thức và một người con khác với bà này. Người vợ không chính thức của ông, mặc dù có con và đã tham gia vào đội quân và ủng hộ nhiều cho kháng chiến, nhưng bà vẫn bị quy định bởi chế độ địa chủ trong Cuộc cải cách ruộng đất năm 1954 và bị giam giữ đến gần chết vì lao phổi.

Hoạt động chính trị

Năm 1928, Trần Huy Liệu thành lập Cường học thư xã, một tổ chức xuất bản sách cổ võ tinh thần yêu nước nhằm nâng cao dân trí. Ông cũng gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng và tổ chức đảng bộ ở miền Nam với vai trò là Bí thư kỳ Nam bộ. Tuy nhiên, ông bị bắt bởi Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1928 và phải chịu án tù 5 năm và bị đày đi Côn Đảo. Trong thời gian ông ở trong tù, ông tiếp xúc với các cộng sản và tiếp thu chủ nghĩa cộng sản, sau đó tuyên bố rời bỏ Việt Nam Quốc dân đảng và tự nguyện gia nhập hàng ngũ của các cộng sản.

Năm 1935, Trần Huy Liệu được thả và trục xuất về miền Bắc. Từ năm 1936, ông đã gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tích cực hoạt động cho đảng. Tháng 10 năm 1939, ông lại bị bắt và đày đi Sơn La, Bá Vân, Nghĩa Lộ. Đến tháng 3 năm 1945, ông tham gia phá trại giam Nghĩa Lộ, vượt ngục và trở về Hà Nội để tham gia công tác cách mạng.

Trong thời gian Cách mạng Tháng Tám, Trần Huy Liệu giữ nhiều vị trí quan trọng mặc dù không bao giờ trở thành Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông tham gia Đại hội Quốc dân ở Tân Trào vào tháng 8 năm 1945 và được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng, cơ quan chính quyền tạm thời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là người soạn Quân lệnh số 1, đưa ra lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc và dẫn đến chiến thắng trong Cách mạng Tháng Tám. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông trong Chính phủ).

Hoạt động nghiên cứu khoa học lịch sử

Từ năm 1953, Trần Huy Liệu chuyển sang công tác nghiên cứu khoa học và đảm nhận chức vụ Trưởng ban Ban nghiên cứu Văn Sử Địa thuộc Trung ương Đảng cho đến năm 1959. Sau đó, ông trở thành Viện trưởng đầu tiên của Viện Sử học và làm Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông để lại 290 công trình nghiên cứu và các bản hồi ký là một di sản đồ sộ. Ông đã có các đóng góp xuất sắc cho lĩnh vực sử học Việt Nam, trong đó tác phẩm "Lịch sử 80 năm chống Pháp" đã mang lại danh tiếng cho ông và được chọn làm sách giáo khoa trong các trường Đại học. Ông cũng được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Ngày 28 tháng 7 năm 1969, Trần Huy Liệu qua đời tại Hà Nội, thọ 68 tuổi, và được an táng tại Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội.

Vinh danh

Trần Huy Liệu đã được bầu làm Viện sĩ Thông tấn do Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức và cũng đã nhận được Huân chương khoa học Humboldt từ chính quyền Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1996, các công trình lịch sử của ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh lần đầu tiên. Tên ông cũng được đặt cho một con đường ở khu vực phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội, một con đường tại phường Trường Thi, thành phố Nam Định, một con đường ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La và một con đường tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Con trai của ông, nhà văn Trần Trường Chiến, đã viết về ông trong tác phẩm "Trần Huy Liệu - Cõi người".

Các tác phẩm chính

  1. Một bầu tâm sự (1927)
  2. Ngòi bút sắc (1927)
  3. Hiến thân vì nước (1928)
  4. Ngục trung ký sự (1927)
  5. Anh hùng yêu nước (1928)
  6. Câu chuyện chung (1928)
  7. Thái Nguyên khởi nghĩa
  8. Ba người anh kiệt nước Ý
  9. Lịch sử Thủ đô Hà Nội (1960)
  10. Nguyễn Trãi (1969)
  11. Lê Văn Tám
  12. Hồi ký Trần Huy Liệu - Nhà xuất bản KHXH và Viện Sử học - 1991
  13. Lịch sử 80 năm chống Pháp (3 tập)
  14. Sơ thảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam (1950 - 1951)
  15. Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam (1954 - 1958, 12 tập).

Chú thích:

  • Phan Than Tâm (2021). "Sử gia Trần Huy Liệu: Ông thầy bịa sử".
1