Giáo sư Vũ Khiêu - Anh hùng lao động, một trong những nhà văn hóa lớn của Việt Nam - đã khái quát đầy đủ phẩm chất của người cộng sản Trần Hữu Dực qua bốn câu đối nhân dịp khánh thành nhà lưu niệm cố Phó Thủ tướng Trần Hữu Dực như sau:
Kiên cường bất khuất, trăm vòng lửa thép vững tâm can
Cần kiệm thanh liêm, một tấm lòng son soi nhiệt nguyệt
Mười lăm tuổi ra đi, sức trẻ tài cao, vào tử ra sinh cùng Tổ quốc
Một trăm năm nhìn lại, gan vàng dạ sắt đồng cam cộng khổ với nhân dân.
Đồng chí Trần Hữu Dực (1910 - 1993), nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa I, II, III, IV; nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ.
Trần Hữu Dực sinh ngày 15/01/1910, trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Dương Lệ Đông, xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Lớn lên trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, từ truyền thống của dân tộc, của gia đình và ảnh hưởng của phong trào yêu nước thời bấy giờ, Trần Hữu Dực đã sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng khi mới 15 tuổi.
Qua thực tiễn hoạt động, được tiếp xúc với sách báo tiến bộ, nhất là những số báo Người cùng khổ, những bài giảng về ''Đường cách mệnh'' của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, nhận thức chính trị của Trần Hữu Dực ngày càng được nâng cao.
Từ nhận thức “không có tổ chức như cát rời, vô dụng”, ngay lúc tuổi 16, Trần Hữu Dực đã chủ trì Hội nghị thành lập tổ chức yêu nước “Ái hữu dân đoàn”.
Tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, “Ái hữu dân đoàn” đã tạo ảnh hưởng tích cực, mở đường cho tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội xâm nhập lan rộng vào Quảng Trị, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng của huyện Triệu Phong nói riêng và tỉnh Quảng Trị nói chung.
Trong thời gian hoạt động cách mạng từ 1926 - 1945, Trần Hữu Dực bị Pháp bắt 4 lần và bị chính quyền Nam triều kết án tổng số 29 năm tù giam và 22 năm quản thúc, từng trải qua các nhà tù khét tiếng tàn độc của đế quốc thực dân như nhà tù Quảng Trị, nhà đày Lao Bảo, nhà đày Buôn Ma Thuột (2 lần).
“Phải sống sao cho xứng đáng là người cộng sản”
Từ thuở thiếu thời, Trần Hữu Dực đã “nghiệm ra và thấy rằng mỗi việc làm lớn, nhỏ đều quan trọng và có cách làm tốt của nó. Trước hết con người phải siêng năng, yêu lao động, thích làm việc, không sợ khó, ngại khó, luôn xem người khác làm, hay thì tập làm cho bằng được hoặc hơn, dở thì tránh và xoá bỏ, không cam chịu tụt lại đằng sau”. Có lẽ điều “nghiệm” ra này và những trải nghiệm trong quá trình hoạt động cách mạng” đã hun đúc nên một Trần Hữu Dực gang thép, kiên trung trong đấu tranh cách mạng, bình dị, gần gũi, trong sáng trong cuộc sống đời thường.
Bài học lớn, được Trần Hữu Dực rút ra trong quá trình hoạt động là lòng kiên trì, rèn luyện nhận thức lý luận. Ông cho rằng phẩm chất cao đẹp phải đi đôi với kiến thức rộng, bởi thiếu nó thì hoạt động vô nghĩa, không có phương hướng. Trong tu dưỡng, rèn luyện bản thân, Trần Hữu Dực lấy câu nói nổi tiếng của danh nhân Trần Quốc Tuấn “Tự tri giả anh. Tự thắng giả hùng” tạm dịch là: “người nào tự biết mình mới là người anh minh. Người nào tự mình thắng mình mới là người hùng kiệt” để làm phương châm sống.
Trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, nhất trong nhà tù, nhà đày của thực dân, đế quốc, Trần Hữu Dực luôn tâm niệm “Đối với địch, nhất thiết chúng ta phải bước qua đầu chúng. Nếu không, chúng sẽ bước qua đầu ta”.
Ông Dương Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trong ký ức về cụ Trần Hữu Dực viết “Được làm việc với Cụ nhiều năm, tôi nghĩ Cụ là một con người đặc biệt. Cụ rất tận tụy với công việc, hết lòng hết sức với công việc, chứ không nghĩ gì khác, chỉ công việc và công việc thôi. Cụ rất liêm khiết, không bao giờ có suy nghĩ hay yêu cầu gì cho cá nhân mình. Tôi luôn noi gương Cụ một tấm gương sáng về sự tận tụy với công việc, về trách nhiệm và liêm khiết. Cụ sống rất giản dị, không đòi hỏi gì ở Nhà nước cho việc riêng của mình”.
Sinh thời, Trần Hữu Dực được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách quan trọng. Ở cương vị nào ông cũng giữ được phẩm chất trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính của một người chiến sĩ cách mạng. Ông luôn rèn luyện, giữ bản chất của mình. Quan điểm của ông là “Hoạn bất tài. Hạ hoạn vô vị” (Nghĩa là : Lo bất tài. Không lo địa vị). Suốt cuộc đời hoạt cách mạng khi nào ông cũng tự răn mình “Phải sống sao cho xứng đáng là người cộng sản. Từ hai chữ cộng sản, đến Đảng Cộng sản, đảng viên Đảng Cộng sản, giai cấp vô sản, Chủ nghĩa Mác-Lê nin, chế độ xã hội chủ nnghĩa và rất nhiều vấn đề khác của Cách mạng, tất cả đều quy vào con người cộng sản”.
Sống theo đúng lời dạy của Bác Hồ “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Tháng 6/1945, Trần Hữu Dực thoát khỏi nhà tù đế quốc và không một phút nghỉ ngơi, ông lao ngay vào công việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Trị.
Bằng trí tuệ và khả năng công tác thực tiễn của mình, Trần Hữu Dực đã cùng tập thể Ủy ban khởi nghĩa do ông làm Chủ tịch lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa Quảng Trị nhanh gọn.
Ngày 31/8/1945, ông được bầu vào Thường vụ xứ ủy Trung Kỳ của Đảng và tiếp đó ngày 02/9/1945 trong cuộc họp các đại biểu các tỉnh Trung Kỳ, ông được bầu là Chủ tịch UBND cách mạng Trung bộ với sự tín nhiệm tuyệt đối.
Mấy hôm sau, ngày 05/9/1945 trong cuộc tiếp xúc đầu tiên với các tầng lớp nhân dân thành phố Huế, vị Chủ tịch Trung bộ tuyên bố: “Bộ máy quản lý Nhà nước Việt Nam từ Trung ương đến cơ sở đều hết lòng, hết sức vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngang mức với đa số nhân dân”.
Từ tháng 9/1945, Trần Hữu Dực cùng các đồng chí của mình xây dựng và cũng cố chính quyền mới ở các tỉnh Trung Bộ. Ngày 15/12/1946, Hoàng Quốc Việt (Bí thư Xứ ủy) và Trần Hữu Dực (Chủ tịch Trung Bộ) được gọi ra gặp Bác Hồ để nhận chỉ thị chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến. Theo chỉ đạo của Bác, phải bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ dân, bảo vệ Đảng, kháng chiến sẽ ác liệt, sẽ kéo dài, nhưng vũ khí thô sơ, chưa nên đánh trận địa chiến với địch mà chú ý đánh phục kích, du kích. Những ý kiến của Bác làm chúng tôi thêm rõ, thêm tin tưởng - Trần Hữu Dực nhớ lại.
Giữa năm 1948, Trần Hữu Dực được Trung ương Đảng và Chính phủ điều ra Việt Bắc, từ đó ông đảm nhận chức vụ Ủy viên Đảng đoàn Chính phủ, Bí thư đầu tiên của Liên Chi ủy cơ quan Trung ương, nơi Bác Hồ sinh hoạt Đảng tại Liên chi cơ quan Trung ương. Năm 1950, Trần Hữu Dực được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Quân đội Nhân dân Việt Nam (nay là Tổng cục Hậu cần). Ông tham gia các chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh và chỉ đạo đảm bảo hậu cần cho Chiến dịch Điện Biên năm 1954. Năm 1972 - 1973, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra rất ác liệt, Trần Hữu Dực được bí mật cử vào chiến trường Trị Thiên, giữ chức vụ Bí thư Khu ủy Trị Thiên.
Gần 4 thập kỷ làm việc ở Trung ương, là Ủy viên BCH Trung ương khóa I, II, III và IV, Trần Hữu Dực đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng của Đảng, Chính phủ, Quốc hội như Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Trưởng ban Công tác Nông thôn của Đảng; Bộ trưởng Bộ Nông trường; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng; Bí thư Khu ủy Trị Thiên; Phó Thủ tướng Chính phủ; Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao. Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII (41 năm). Trên mọi cương vị, ông tận tụy ngày đêm, nắm chắc tình hình, đi sát thực tế, lắng nghe nhân dân, gần gũi cán bộ, hiểu rõ, bản thân nêu gương, phát huy tập thể, từ đó mà hoàn thành mọi nhiệm vụ. Suốt cuộc đời từ khi trai trẻ đến khi cao tuổi, Trần Hữu Dực luôn luôn là người cán bộ lòng trung, tâm sáng, mắt nhìn tai nghe, óc nghĩ, miệng nói, tay làm. Suốt cuộc đời mình, Trần Hữu Dực sống theo đúng lời dạy của Bác Hồ “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Ông luôn sống trung thực thẳng thắn, giản dị khiêm tốn. Ông căm ghét những kẻ cơ hội, tham nhũng quan liêu, sa đọa về phẩm chất. Như Bác nói đó là giặc ngoại xâm nguy hiểm.
Bất kỳ ở cương vị nào, ông luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, nêu tấm gương cần kiệm, liêm chính như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét “Đồng chí Trần Hữu Dực là một đảng viên Cộng sản hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, nêu tấm gương: kiên cường bất khuất, cần kiệm liêm chính”.
Sống theo đúng tinh thần cách mạng của Bác Hồ, Trần Hữu Dực đã dành cả đời để phục vụ Tổ quốc và nhân dân. Với lòng trung thành và tấm lòng yêu nước, ông luôn luôn là một bậc tiền bối đáng quý, là một người anh em đồng bào để noi theo.