Lê Thanh Nghị (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1911 tại Gia Lộc, Hải Dương, thuộc Đông Dương thuộc Pháp, mất ngày 16 tháng 8 năm 1989 tại Hà Nội) là một chính trị gia của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông từng là Bộ trưởng Công nghiệp từ năm 1955 đến 1960, là thành viên của Bộ Chính trị từ năm 1956 đến 1982, Phó Thủ tướng từ năm 1960 đến 1981, Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước từ năm 1974 đến 1980 và là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước từ năm 1982 đến 1987.
Cuộc đời và Sự nghiệp đầy gian khổ
Lê Thanh Nghị, ban đầu tên là Nguyễn Khắc Xứng, đã tham gia hoạt động cách mạng chống lại thực dân Pháp từ những năm đầu thập kỷ 1920. Sau khi bị bắt và bị kết án tù chung thân, ông bị đày tới quần đảo Côn Đảo. Từ khi được thả tự do vào năm 1936, ông trở về Hà Nội và tiếp tục hoạt động cách mạng trong phong trào công nhân. Ông tham gia xây dựng các tổ chức bạn hữu, công đoàn và tổ chức đảng cơ sở, trở thành thành viên trong Ủy ban Đảng của Hà Nội. Vào năm 1939, ông tham gia hoạt động cách mạng tại Hải Phòng và sau đó trở thành thành viên của Ban Đảng liên tỉnh B và làm việc tại Ban Đảng Bắc Việt. Năm 1940, ông bị bắt lần thứ hai và bị kết án tù 5 năm, sau đó bị đày đến Sơn La. Trong nhà tù Sơn La, ông tiếp tục tham gia các hoạt động chống lại quản giáo, tổ chức chiến đấu và tìm cách liên lạc với thế giới bên ngoài.
Sau khi thất bại trong việc trốn thoát, Lê Thanh Nghị trở về Hà Nội vào năm 1945 sau khi án tù kết thúc. Cùng lúc đó, ông trở thành thành viên của Ban chấp hành cố định của Ủy ban Đảng khu vực Bắc. Vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, ông tham dự Hội nghị mở rộng của Ban Trung ương Đảng và sau đó được giao trọng trách lãnh đạo phong trào cách mạng tại "vùng chiến trường Hoàng Hoa Thám". Ngoài ra, ông cũng được bổ nhiệm làm thành viên của Ủy ban Quân sự miền Bắc, trực thuộc Bộ chỉ huy vùng 2. Sau tháng 8 năm 1945, ông trở thành Ủy viên Uỷ ban Trung ương Đảng chú trọng vùng ven biển (Trung Bộ) gồm Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên, Hồng Gai và Hải Ninh. Vào đầu cuộc chiến tranh Đông Dương, từ năm 1946 đến 1948, ông là thành viên của Ban chấp hành cố định của Ủy ban Đảng, Bí thư Ban Đảng khu vực III và Chủ tịch Ban Kháng chiến vùng này. Sau khi làm Phó Bí thư Ban Chấp hành khu vực III từ năm 1948 đến 1949, ông được bổ nhiệm làm Trưởng ban của Ban Trung ương Đảng và sau khi trở về vào cuối năm 1949, ông lại trở thành Phó Bí thư Ban Chấp hành khu vực III.
Từ năm 1951 đến 1986, Lê Thanh Nghị đã là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng Trung ương Kỷ II, III, IV và V. Ông đã tham gia vào chính trị Hà Nội từ năm 1953 đến 1954, sau đó trở thành Trưởng Ban Trung ương Đảng. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1955, Lê Thanh Nghị được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công nghiệp trong Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và giữ chức vụ này cho đến tháng 7 năm 1960. Vào một Hội nghị toàn thể của Ban Trung ương Đảng Kỷ II, ông đã được bầu làm thành viên Ban Chấp hành và giữ chức vụ này trong Ban lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng trong suốt hơn 35 năm cho đến Kỷ II vào cuối năm 1986. Ông cũng trở thành thành viên của Quốc hội từ kỳ họp thứ hai cho đến cuối kỳ họp thứ bảy vào ngày 19 tháng 4 năm 1987.
Đóng góp lớn và cuộc sống vĩ đại
Lê Thanh Nghị đã nắm giữ vị trí Phó Thủ tướng từ ngày 15 tháng 7 năm 1960 và giữ chức vụ này cho đến ngày 4 tháng 7 năm 1981. Ông từng giữ cả hai vị trí là Trưởng Văn phòng Công nghiệp tại Thủ tướng từ năm 1960 đến ngày 22 tháng 2 năm 1967 và là Chủ tịch Uỷ ban Xây dựng Nhà nước từ ngày 7 tháng 1 năm 1960 đến năm 1964. Ông đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước từ ngày 28 tháng 3 năm 1974 thay thế Nguyễn Lam và giữ chức vụ này cho đến ngày 8 tháng 2 năm 1980. Sau khi kết thúc vai trò này, ông được lựa chọn làm thành viên của Hội đồng Quốc phòng Quốc gia vào tháng 7 năm 1976. Sau khi hoàn thành nhiệm kỳ này, ông được bầu làm thành viên của Bộ Chính trị và được Ủy ban Đồng chí Trung ương bổ nhiệm làm thành viên thường trực của Ban Bí thư cho đến ngày 31 tháng 3 năm 1982. Ông cũng đã là Chủ tịch Ủy ban Việt Nam-Cộng hòa Dân chủ Đức XHCN cho hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật kể từ tháng 2 năm 1977.
Lê Thanh Nghị được tôn vinh bằng việc đặt tên một đường phố ở Hà Nội mang tên ông. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 110 của mình, Lê Thanh Nghị, người đã kết hôn với Đào Thị Hậu từ năm 1944 đến khi mất vào năm 1989, được tôn vinh như là "một chính trị gia tài giỏi và đặc biệt của Đảng" và cuốn sách "Đồng chí Lê Thanh Nghị - Nhà chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh" do Ban Tuyên giáo Ban Bí thư Đảng trung ương xuất bản đã ra đời.
Tài liệu tham khảo
- Directory of Officials of the Socialist Republic of Vietnam. A Reference Aid, Bände 7-25, US National Foreign Assessment Center, 1980 (Onlineversion)
- Le Thanh Nghi on Economic Development of Districts, Foreign Broadcast Information Service, 1982
- Directory of Officials of the Socialist Republic of Vietnam. A Reference Aid, 1983 (Onlineversion)
- Kosal Path: Vietnam’s Strategic Thinking During the Third Indochina War, University of Wisconsin Press, 2020, ISBN 978-0-29932-2-700 (Onlineversion (Auszug))
- Đồng chí Lê Thanh Nghị - Nhà chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, (Genosse Le Thanh Nghi - Politiker, Ökonom, Militär und Diplomat der Ho-Chi-Minh-Ära), 2021
Lê Thanh Nghị (heller Anzug) bei einem Besuch in der Sozialistischen Republik Rumänien.